Phật là chữ viết tắt của Phật-đà, đây là danh hiệu phiên âm từ tiếng Phạn hoặc Pali Buddha ( sangs rgyas)sang Hán-Việt; dịch ý là Giác giả , tức “Người tỉnh thức”. Một cách gọi khác là Bụt (chữ Nôm).
Ý nghĩa của từ Phật có thể được hiểu như là: vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, một Bậc giác ngộ, Phật tính, hoặc Thể tính tuyệt đối Bất khả tư nghị.
Người giác ngộ
Phật là người đã dứt khỏi Luân hồi (samsāra), đạt giác ngộ hoàn toàn, đạt Giải thoát, chứng Niết-bàn. Nội dung quan trọng nhất của giáo pháp giác ngộ là Tứ diệu đế. Phật là người đã vượt qua mọi tham ái, là người biết phân biệt thiện ác, nhưng tâm không vướng mắc vào các phân biệt đó. Sau khi chết, một vị Phật không còn tái sinh.
Người ta phân biệt hai quả vị Phật: Độc Giác Phật (pratyeka-buddha), là người hoàn toàn giác ngộ, nhưng không giáo hóa, và Tam-miệu-tam-phật-đà (samyak-sambuddha), dịch ý là Bậc Chính Đẳng Chính Giác, người giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ. Một Chính Đẳng Chính Giác là một vị đã đạt Nhất thiết trí (sarvajñatā), Mười lực (Thập lực, daśabala), chứng Bốn tự tin (Tứ vô sở uý). Vị Phật của thời đại chúng ta là Thích-ca Mâu-ni. Phật Thích-ca—một nhân vật lịch sử có thật—không phải là vị Phật đầu tiên và duy nhất. Trong những kinh Nikàya Pali, người ta đã nhắc các vị Phật trong các thời đại trước: Tì-bà-thi (vipaśyin, vipassi), Thi-khí (śikin, sikhī), Tì-xá-phù (viśvabhū, vessabhū), Ca-la-ca-tôn-đại (krakuccanda, kakusandha), Câu-na-hàm (konagāmana) và Ca-diếp (kāśyapa, kassapa). Vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai để tiếp tục hoằng pháp là Di-lặc (maitreya, metteyya). Trong kinh sách, người ta còn nhắc đến 13 vị Phật khác mà vị quan trọng nhất là Phật Nhiên Đăng (dīpaṅkara). Trong thời quá khứ, Phật Thích-ca là người tu khổ hạnh mang tên Thiện Huệ (sumedha), đệ tử của Phật Nhiên Đăng. Lịch sử các vị Phật được ghi trong Tiểu bộ kinh (khuddaka-nikāya).
Bắt đầu con đường tiến đến Phật quả, một vị Bồ Tát phát nguyện trước một vị Phật, quyết tâm thành đạo giác ngộ. Trải qua vô lượng kiếp, vị Bồ Tát đó thực hành mười hạnh Ba-la-mật-đa. Trước khi sinh lần cuối, vị đó thường giáo hóa ở cung trời Đâu-suất (tusita). Khi sinh lần cuối vị Phật sẽ mang trong người Ba mươi hai tướng tốt, Tám mươi vẻ đẹp khác cũng như đã đạt 37 Bồ-đề phần. Các vị Phật khi sinh ra thì mẹ của các vị sẽ chết bảy ngày sau đó. Lúc lớn lên, đến thời kì thích hợp, các vị Phật sẽ sống không nhà và sau khi giác ngộ sẽ thành lập Tăng-già. Lúc Phật nhập Niết-bàn là cũng là lúc chấm dứt quá trình đạt đạo.
Thích-ca Mâu-ni
Nhân vật lịch sử Thích-ca Mâu-ni sinh năm 563 TCN nhưng cũng có thuyết nói sinh năm 624 TCN, con trai của một tiểu vương thuộc dòng họ Thích-ca, ngày nay thuộc nước Nepal, gần Hi-mã-lạp sơn. Tên thật của vị này là Tất-đạt-đa, thuộc họ Cồ-đàm, vì vậy cũng có người gọi vị Phật này là Phật Cồ-đàm. Sau quá trình tu hành đạt đạo, Phật này mang danh hiệu Thích-ca Mâu-ni nghĩa là Trí giả trầm lặng của dòng Thích-ca (danh từ tiếng Phạn muni chỉ một trí giả, đặc biệt là trí giả trầm mặc tĩnh mặc). Khi muốn phân biệt vị Phật lịch sử này với Phật tính (xem bên dưới), người ta gọi rõ tên là Phật Thích-ca.
Phật Tính
Phật tính, được xem là gốc của mọi hiện tượng; mọi hiện tượng là biểu hiện của Phật tính. Nếu phái Tiểu thừa chỉ công nhận mỗi thời đại chỉ có một vị Phật, và vị này là phải là một nhân vật lịch sử và là đạo sư giáo hóa, thì Đại thừa cho rằng có vô số vị Phật được biểu hiện khác nhau. Theo quan điểm Tam thân (trikāya) của Đại thừa thì Phật tính biểu hiện qua ba dạng chính và mỗi dạng Phật biểu hiện một tính chất của Chân như.
Các dạng siêu việt của Phật tính, Chân như được kể là các vị Phật A-di-đà, Đại Nhật, Bảo Sinh, Bất Động, Bất Không Thành Tựu, Kim Cương Tát-đỏa. Các vị này là thầy của các vị Bồ Tát và là giáo chủ của các Tịnh độ. Các dạng Phật siêu việt của Chân như đều có tính chất siêu thế gian, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, vô lượng thọ. Theo quan điểm Tam thân thì Báo thân Phật (sambhogakāya) chính là hình ảnh lí tưởng của các vị Bồ Tát tự tạo nên để theo đó mà tu học. Báo thân lại chính là Chân tâm của Ứng thân, hay Hóa thân (nirmānakāya), là thân của Phật có dạng con người sống trên địa cầu. Khoảng năm 750 sau Công nguyên, sau khi Kim cương thừa ra đời thì trong các trường phái Đại thừa cũng chấp nhận ngoài Pháp thân (dharmakāya) có thêm năm vị Phật chuyển hóa từ Pháp thân đó, được gọi là Ngũ Phật hay Phật gia, vì mỗi một vị Phật đó được xem có thêm một vị Phật lịch sử (từng sống trên địa cầu) và một vị Bồ Tát đi kèm:
1. Cùng với Phật Đại Nhật là vị Ca-la-ca-tôn-đại (krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (samantabhadra).
2. Cùng với Phật Bất Động, tức là A-Súc-Bệ Phật (aksobhya) là vị Ka-na-ca-mâu-ni (kanakamuni) và Kim Cương Thủ Bồ Tát (vajrapāni).
3. Cùng với Phật Bảo Sinh là vị Phật lịch sử Ca-diếp (kāśyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapāni).
4. Cùng với Phật Bất Không Thành Tựu là vị Phật Di-lặc và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Viśvapāni).
5. Cùng với Phật A-di-đà là Phật Thích-ca Mâu-ni và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara).
Phật Lực
Một điểm giống của Phật giáo đối với các tôn giáo lớn khác trên thế giới là vị thánh tối cao của Phật giáo- đức Phật tổ, trong niềm tin của Phật tử, có khả năng vô hạn, thể hiện qua bốn chữ "Phật pháp vô biên". Trong các tôn giáo khác thì người ta có từ "Thiên chúa toàn năng". Tất cả những danh xưng trên đều thể hiện không có gì mà các vị thánh tối cao không làm được và không ai cao hơn các vị thánh này.
Quan điểm này rất mạnh trong lòng tin của những người bình dân. Trong văn học dân gian hay trong văn học bác học Trung quốc (Tây du ký), cùng như trong các câu chuyện về đức Phật, người ta bắt gặp các vị thần như Thượng đế, thần Mưa, Gió, Sấm, Chớp,... đều có thể bị đánh bại trước một nhân vật nào khác, song khi Phật xuất hiện thì mọi đối thủ đều phải chịu sự ràng buộc.
Thể Tính Tuyệt Đối
Một khái niệm chỉ cái tuyệt đối, cuối cùng của thế giới. Thể này nằm ngoài mọi suy luận, không thể nghĩ bàn (Bất khả tư nghị), là bản thể không hề biến hoại của Phật tính.
Tam Thế Phật
Kinh văn đôi lúc cũng nhắc đến Tam thế Phật, nghĩa là Phật của ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ ba vị Ca-diếp (kāśyapa), Thích-ca Mâu-ni (śākyamuni) và Bồ Tát Di-lặc (maitreya), Phật tương lai. Có khi tranh tượng trình bày Phật Nhiên Đăng (Nhiên Đăng Thượng Cổ Phật, dīpankara, Dipankara) là Phật quá khứ.
Phật là gì?
Ngày nọ có người theo đạo Bà-la-môn tên Dona , nhân khi thấy dấu chân của Đức Phật in dưới cát có những đặc điểm lạ thường , đến gần Ngài và hỏi :
- Phải chăng Ngài là một vị Trời ( Deva) ?
- Không , quả thật tôi không phải là một vị Trời .
- Vậy , phải chăng Ngài là một nhạc công trong cảnh trời (Càn-Thát-Bà, Gandhabba) ?
- Không , tôi không phải là một nhạc công trong cảnh trời .
- Vậy Ngài là quỷ Yaksa (Dạ-Xoa) chăng ?
- Không , quả thật tôi cũng không phải là quỷ Yaksa (Dạ-Xoa) .
- Như thế chắc Ngài là người ta ?
- Không , quả thật tôi cũng không phải là người ta .
- Vậy xin cho biết Ngài là ai .
Đức Phật trả lời rằng Ngài đã tận diệt những pháp trầm luân tạo điều kiện để tái sanh vào những cảnh Trời , Gandhabba , Yaksa hay cảnh Người , Ngài nói : “Ta là Phật .”
Đức Phật không hề tự xưng là hiện thân (Avatara) của thần Vishnu - một thần linh Ấn Độ giáo mà kinh Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền diệu , sanh ra để bảo vệ sự chân chính , tiêu diệt tội lỗi và củng cố đạo lý (Dharma) .
Đức Phật cũng không bao giờ tự gọi là “ Đấng Cứu Thế” , có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng chính sự cứu rỗi của mình . Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỉ bước theo dấu chân Ngài, không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát lấy mình bời vì cả hai , trong sạch và bợn nhơ , cũng đều tuỳ thuộc nơi chính mình .
"Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm ". – kinh Pháp Cú câu 165
Đức Phật đã dạy minh bạch rằng :
“ Các con phải tự mình nỗ lực , các Đấng Như Lai chỉ là Đạo Sư”. - kinh Pháp Cú câu 276
Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh . Đi trên con đường và theo đúng phương pháp là phần của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống .
Đức Phật là một người như chúng ta . Ngài sinh ra là một người , sống như một người và từ giã cõi đời như một người . Mặc dầu là Người , Ngài trở thành một Người thầy siêu phàm ( Achariya Manussa) do những đặc tánh duy nhất của Ngài .
“ Ỷ lại nơi kẻ khác để giải thoát cho mình là tiêu cực , chỉ tuỳ thuộc nơi mình để tự giải thoát quả thật là tích cực “. Đức Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để cho chúng ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt .
- Phải chăng Ngài là một vị Trời ( Deva) ?
- Không , quả thật tôi không phải là một vị Trời .
- Vậy , phải chăng Ngài là một nhạc công trong cảnh trời (Càn-Thát-Bà, Gandhabba) ?
- Không , tôi không phải là một nhạc công trong cảnh trời .
- Vậy Ngài là quỷ Yaksa (Dạ-Xoa) chăng ?
- Không , quả thật tôi cũng không phải là quỷ Yaksa (Dạ-Xoa) .
- Như thế chắc Ngài là người ta ?
- Không , quả thật tôi cũng không phải là người ta .
- Vậy xin cho biết Ngài là ai .
Đức Phật trả lời rằng Ngài đã tận diệt những pháp trầm luân tạo điều kiện để tái sanh vào những cảnh Trời , Gandhabba , Yaksa hay cảnh Người , Ngài nói : “Ta là Phật .”
Đức Phật không hề tự xưng là hiện thân (Avatara) của thần Vishnu - một thần linh Ấn Độ giáo mà kinh Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền diệu , sanh ra để bảo vệ sự chân chính , tiêu diệt tội lỗi và củng cố đạo lý (Dharma) .
Đức Phật cũng không bao giờ tự gọi là “ Đấng Cứu Thế” , có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng chính sự cứu rỗi của mình . Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỉ bước theo dấu chân Ngài, không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát lấy mình bời vì cả hai , trong sạch và bợn nhơ , cũng đều tuỳ thuộc nơi chính mình .
"Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm ". – kinh Pháp Cú câu 165
Đức Phật đã dạy minh bạch rằng :
“ Các con phải tự mình nỗ lực , các Đấng Như Lai chỉ là Đạo Sư”. - kinh Pháp Cú câu 276
Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh . Đi trên con đường và theo đúng phương pháp là phần của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống .
Đức Phật là một người như chúng ta . Ngài sinh ra là một người , sống như một người và từ giã cõi đời như một người . Mặc dầu là Người , Ngài trở thành một Người thầy siêu phàm ( Achariya Manussa) do những đặc tánh duy nhất của Ngài .
“ Ỷ lại nơi kẻ khác để giải thoát cho mình là tiêu cực , chỉ tuỳ thuộc nơi mình để tự giải thoát quả thật là tích cực “. Đức Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để cho chúng ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét