Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Quân Trà Lợi Minh Vương


Đức Đặc Biệt 

Quân Trà Lợi Minh Vương, hay thành tựu vô lượng trăm ngàn pháp, thanh tịnh tất cả tội, chữa khỏi các bệnh Quỷ Mỵ Dã Đạo, tiêu diệt bệnh biến quái ác,cũng trừ tất cả độc, tránh xa các tai ách về thú ác, nạn trộm cướp, nạn vua chúa, tự bảo vệ mình bảo vệ người, sống lâu không bệnh an ổn khoái lạc.

Quân Trà Lợi Minh Vương (Tên Phạn là: Kundah, Kundali), dịch âm là Quân Trà Lợi, dịch ý là cái bình. Trong Mật Giáo cái bình là tượng trưng cho Cam Lộ, cho nên lại dịch là Cam Lộ Quân Trà Lợi, là 1 trong 5 Đại Minh Vương của Mật Giáo, là Giáo Lệnh Luân Thân (Thân phẫn nộ) của Đức Phật Bảo Sinh ở phương nam. Quân Trà Lợi Minh Vương dùng phương tiện Từ Bi, Thành Chứng Đại Uy Nhật Luân để chiếu diệu cho người tu hành. Và rưới rót nước Cam Lộ, dùng để tẩy rửa 3 độc phiền não trong đất Tâm của chúng sinh. Nhân đây lại gọi là Cam Lộ Quân Trà Lợi Minh Vương ( Amriti-kundali, A Mật Lợi Đế Minh Vương ). Mà Cam Lộ ( Tên Phạn là: Amrta),dịch âm là A Mật Lật Đa, Á Mật Lí Đạt, dịch ý là Bất Tử, chất nước Bất Tử, Cam Lộ…. Tương truyền khi uống vào có thể sống lâu chẳng chết. Trong “ Chú Duy Ma Cật Kinh “ nói, chư Thiên dùng mọi loại thuốc hay bỏ vào trong biển, dùng núi báu khuấy đảo để khiến thành Cam Lộ, khi uống vào thì được thành Tiên. Nên có tên là thuốc Bất Tử. Trong Phật pháp, dùng Niết Bàn Cam Lộ khiến sinh tử bị cắt đứt vĩnh viễn, đó mới thật là thuốc Bất Tử. Ngoài ra, cũng có thuyết nói Quân Trà Lợi có 3 bộ, gọi là: Cam Lộ Quân Trà Lợi ( Phật Bộ), Kim Cang Quân Trà Lợi ( Kim Cang Bộ) với  Liên Hoa Quân Trà Lợi ( Liên Hoa Bộ).

Nhân vì thị hiện tướng phẫn nộ, hình mạo lại tựa như thân Dạ Xoa, cho nên cũng gọi là Quân Trà Lợi Dạ Xoa Minh Vương ( Kundalì-yaksas). Ngoài ra, cũng có cách gọi khác là “ Đại Tiếu Minh Vương “. Liên quan đến công đức tụng trì Quân Trà Lợi Minh Vương Chân Ngôn hoặc tu trì Quân Trà Lợi Minh Vương Pháp, trong “ Tây Phương Đà La Ni Tạng Trung Kim Cang Tộc A Mật Lí Đa Quân Trà Lợi Pháp “ nói: tu Pháp này hay diệt tất cả tội, được đại phú quý, cũng hay trừ tất cả sự sợ hãi, cũng hay trừ sự đói khát, hay lợi ích cho tất cả chúng sinh. Hoặc vào quân trận, hoặc có đấu tranh mà cầm cờ hiệu thảy đều được thắng, vô lượng trăm ngàn Pháp đều được thành tựu. Có thể trị bệnh Quỷ Mỵ Dã Đạo với bảo vệ bản thân mình và bảo vệ người khác, sống lâu không có bệnh. Lại nói, Quân Trà Lợi Tam Muội Gia Đàn, có lợi ích lớn, là nơi mà Chư Phật, Bồ Tát với các Hàng Trời Rồng đều khen ngợi. Nếu đã gây tạo mọi loại nghiệp tội trong vô lượng đời, ấy là Địa Ngục Súc Sinh…. Ngày nay, lúc này liền được thanh tịnh. Thảy đều đoạn trừ các Đại Địa Ngục, đóng bít các cửa Địa Ngục, mở ra các cổng Trời. Tất cả Tưởng ác, mộng ác, tai ách thảy đều tiêu diệt, tất cả oan gia đều sinh tưởng bạn lành. Tất cả La Sát, Dược Xoa, Tì Xá Già, Cổ Độc, Yểm Cổ, Trà Di Nê các thuật chú ác chẳng thể gây hại. Tất cả Quỷ Thần Ma Để Lí…. đều sẽ ủng hộ, như đứa con một không khác. 
Nếu có người tu Pháp ấy, thì dao chẳng thể hại, lửa chẳng thể thiêu đốt, tất cả nạn vua chúa, nạn trộm cướp, nạn oan gia, rồng ác, sấm sét cũng chẳng thể gây hại, tất cả nơi tranh luận thảy đều được thắng. Không sợ hãi loài Quỷ ở nước và núi….sẽ được sống lâu an ổn khoái lạc. Tất cả yêu kính, tiền tài giàu có; Gấu Heo, Gấu Chó, Đại Trùng, Sư Tử, Cọp, Sói, Voi trắng cũng chẳng thể gây hại, cũng chẳng chết đột ngột, Chư Phật, Bồ Tát thường nghĩ nhớ, bốn vị Đại Thiên Vương thường theo ủng hộ, với 28 bộ Dược Xoa Đại Tướng, Tuyết Sơn Dược Xoa Đại Tướng, tất cả Trì Chú Tiên, Nhân Vương, Tất cả Kim Cang, Chư Thiên, Quỷ Thần, Sứ Giả, Thủ Hộ Ấn Thần với các Giáo Thủ…. Hàng Trời Quỷ Thần của nhóm như vậy, ủng hộ người vào Đàn, như là con một, lại có công đức vô lượng vô biên. Trong Kinh lại có nói Pháp trừ mọi thứ bệnh sống lâu: 
  
_ Nếu có người ăn phải thuốc độc, thì lấy nước thơm rửa Chày Kim Cang, rồi lấy nước đó Chú 21 biến, đốt An Tất Hương, rồi cho người đã ăn thuốc độc ấy, uống vào liền được trừ khỏi. 

_ Nếu bị rắn độc cắn phải, lấy đất màu vàng Chú 21 biến, rồi hòa với nước thơm làm bùn xoa chỗ vết cắn, hoặc dùng đuôi con công phủi phết chỗ vết cắn, liền trừ tất cả độc. 

_ Nếu người không có Phước Đức, người bị bệnh ác biến quái…. Như Pháp tu trì tức trừ được tất cả biến quái ác, nạn bị bệnh lâu dài…. Liền được trừ khỏi. Hình tượng của Quân Trà Lợi Minh Vương, thông thường có 4 mặt 4 cánh tay, hoặc có 1 mặt 8 cánh tay. Căn cứ trong “ Quân Trà Lợi Nghi Quỹ “ đã ghi chép. Khuôn mặt của tượng 4 mặt 4 cánh tay biểu thị cho Tình đều chẳng giống nhau, mặt chính là mặt Từ Bi, mặt bên phải là mặt phẫn nộ, mặt bên trái là mặt đại tiếu, mặt ở phía sau là mặt há miệng hơi giận. Toàn thân màu hoa sen xanh, ngồi trên bàn đá. 4 mặt 4 cánh tay tượng trưng cho 4 loại pháp là Tức Tai, Giáng Phục, Kính Ái, Tăng Ích. Ngoài ra cũng có nói là chỉ 4 loại phiền não căn bổn là Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Mạn, Ngã Ái trong thức thứ 7. 
  
  
  
Trong “ Bạch Bảo Khẩu Sao “ thì nói, tay phải cầm cái Chày Kim Cang, tay tác Mãn Nguyện Ấn, 2 tay tác Yết Ma Ấn. Thân đeo vòng hoa rực lửa có uy quang trụ trong vành trăng, màu hoa sen xanh, ngồi trên bàn đá phát ra tiếng vang (Sắt sắt thạch bàn), mặt chính là mặt hiền lành, mặt thứ 2 là mặt phẫn nộ, mặt thứ 3 là mặt đại tiếu, mặt thứ  4 ở phía sau há miệng hơi giận. Lại nói, tay phải cầm cái Chày Kim Cang là Bổn Thệ Giáng Phục, có ý nghĩa là tồi phá tất cả phiền não, nghiệp ác của chúng sinh. Tay trái tác Mãn Nguyện Ấn là Bổn Thệ Tăng Ích, có ý nghĩa là khiến cho thành tựu mọi sự cầu nguyện của tất cả chúng sinh. 2 tay tác Yết Ma Ấn, là Tổng Tam Muội Gia nghĩa là Yết Ma Thành Tựu là Tác Nghiệp Thành Tựu, cho nên tuy không có người Hành công sức tác nghiệp mà vẫn vận chuyển thành tựu mọi sở nguyện, giáng phục ác nghiệp phiền não. 

Lại nói, tai đeo vòng hoa rực lửa có uy quang biểu thị cho Bồ Tát Trí Hỏa thiêu đốt hết Tà Trí của Nhị Thừa Ngoại Đạo. Ngồi trên bàn đá phát ra tiếng vang biểu thị cho Tâm Tịnh Bồ Đề, toàn bộ biểu thị cho sự không nghiêng động. Còn như tạo hình Quân Trà Lợi Minh Vương có 1 mặt 3 con mắt 8 cánh tay, là đầu đội mão đầu lâu, mắt mở to,  rất giận dữ, và có 2 con rắn đỏ thòng ở trước ngực. 8 cánh tay, Bên Phải: Tay ở trên cầm cái Chày Kim Cang, co cánh tay hướng lên trên; Tay thứ 2 ở dưới cầm Tam Xoa 2 đầu có mũi nhọn dài, co cánh tay hướng lên trên; cánh tay thứ 3 ở dưới đè lên cánh tay thứ 3 bên trái, 2 cánh tay bắt chéo nhau ở trước ngực, 2 tay đều tác Bạt Chiết La Ấn; Cánh tay thứ 4, ngữa rũ hướng xuống dưới, gần hông phải, duỗi 5 ngón tay, là tác Thí Vô Úy Thủ. Bên trái: Tay ở trên cầm Kim Luân Hình ( Hình bánh xe vàng), co cánh tay hướng lên trên; tay thứ 2 ở dưới, ngón giữa hạ xuống, 3 ngón đều co lại hướng vào lòng bàn tay, ngón cái vịn bên cạnh đốt trên ngón giữa, ngón trỏ dựng thẳng, duỗi hướng lên trên, co khuỷu tay lại, cánh tay hướng về bên trái; tay thứ 4 ở dưới, đặt ngang che kín hông trái, đầu ngón tay hướng về bên phải. Trong “ Tây Phương Đà La Ni Tạng Trung Kim Cang Tộc A Mật Lí Đa Quân Trà Lợi Pháp “ nói, bên trái Đức Phật vẽ Kim Cang Quân Trà Lợi, nên tác tướng đáng sợ. Bên phải: Tay ở trên cầm cái Chày Kim Cang, lần lượt tay cầm cây Búa, kế đến tay ở dưới cầm cây Kiếm, tiếp theo tay cầm cái Chùy. Bên trái: Tay cầm sợi dây lụa, lần lượt tay ở dưới cầm cây Giáo, kế đến tay cầm Bánh Xe; tiếp theo tay cầm cây Gậy, trên cây Gậy an 2 con mắt. Hai tay chắp lại để ngang trái Tim, mắt màu hơi đỏ, răng nanh hướng lên trên, tóc ở trên đầu dựng thẳng như màu lửa rực, toàn thân có ánh sáng lửa rực, mọi thứ anh lạc trang nghiêm thân đó, môi trên cắn môi dưới, thân đó đứng chân đạp trên hoa sen xanh. Pháp Quân Trà Lợi Minh Vương phần nhiều dùng Điều Phục, Tức Tai, Tăng Ích làm phương diện. Nếu như người tu hành mỗi ngày trước khi ăn, dâng cúng 1 ít đồ ăn, rồi sau hãy niệm tụng Quân Trà Lợi Minh Vương Tâm Chú 7 biến, thì bất luận ở nơi nào đều được sự gia hộ của Minh Vương. Ngoài ra,Quân Trà Lợi Minh Vương Chân Ngôn cũng thường dùng để phụ trợ tu trì Mật Pháp khác, hoặc dùng để gia trì vật cúng. Hành Giả như pháp tu trì, cũng có thể đạt được hiệu nghiệm trừ tất cả chướng nạn, khỏi bệnh, sống lâu. 
 
CHÂN NGÔN, CHỮ CHỦNG TỬ CỦA QUÂN TRÀ LỢI MINH VƯƠNG 
 
 
Chân Ngôn: 
 
  (1) Nẵng mô     (2) la đát nẵng đát la dạ dã     (3) nẵng ma     (4) thất chiến nã    
(5) ma ha phộc nhật la câu lộ đà dã     (6) án     (7) hộ lỗ     (8) hộ lỗ     (9) để sắt
tra     (10) để sắt tra     (11) mãn đà     (12) mãn đà     (13) hạ nẵng     (14) hạ
nẵng     (15) a mật lí đế     (16) hồng     (17) phát tra     (18) sa phộc hạ
 
(1) NAMO     (2) RATNA-TRAYÀYA     (3) NAMA (?NAMAH)    (4) A’SCANDA
(?’SCANDA)  (5) MAHÀ-VAJRA-KRODHÀYA     (6) OM     (7) HURU     (8) 
HURU     (9) TISTHA (?TISTA)   (10) TISTHA (?TISTA)    (11) BANDHA     (12)
BANDHA     (13) HANA     (14) HANA     (15) AMRTA     (16) HÙM     (17) PHAT     
(18) SVÀHÀ
 
(1) Quy mạng     (2) Tam Bảo     (3) Quy mạng     (4) Bạo Ác     (5) Đại Kim Cang 
Phẫn Nộ     (6) Quy mạng     (7) Tốc Tật ( Bệnh tật nhanh chóng)     (8) Tốc Tật     
(9) An Trú     (10) An Trú     (11) Hệ Phộc     (12) Hệ Phộc     (13) Sát Hại     (14) 
Sát Hại     (15) Cam Lộ     (16) Phẫn ( Giận)     (17) Tồi Phá     (18) Thành Tựu       
             
Đại Tiếu Minh Vương Chân Ngôn 
 
(1) Án     (2) phộc nhật la tra hạ sa dã     (3) hồng phán tra
 
(1) OM     (2) VAJRÀTTAHÀSÀYA  (?VAJRATHÀHÀSÀYA)   (3) HÙM  PHAT 
 
(1) Quy mạng     (2) làm Kim Cang Đại Tiếu     (3) Phẫn Nộ Tồi Phá 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét