Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Bát Đại Hộ Pháp



Một điều khó hiểu của Phật giáo đó là sự xuất hiện của các dạng hình tướng phẫn nộ, khủng khiếp...Có thể nói đó là những hình tướng xấu xí, ghê rợn đến sởn tóc gáy, và những hình tướng phẫn nộ này dường như đi ngược lại với tinh thần Phật Giáo.

Những hình tướng này không hề là biểu tượng cho cái ác hay là tượng trưng cho một ma lực nào đó...Mà thay vào đó chính là tượng trưng cho sự dũng mãnh của thực tại căn bản của vũ trụ nói chung, và tượng trưng cho tâm thức của con người nói riêng.


Ngoài ra đó còn là sự tiêu diệt những mê muội hư vọng của tâm thức con người, và mục đích của các vị còn là sự bảo hộ cho lòng tín, đức tin. Những hộ thần phẫn nộ là những tượng trưng cho sự chế ngự dục vọng, đánh bại những điều xấu xa.


Những hộ thần thường có thân hình chắc nịch, ngắn nhưng dày... nhiều vị còn có nhiều đầu nhiều tay. Màu sắc của khuôn mặt các ngài thường đựơc hay so sánh với màu mây, màu đá quý...Đó là lý do tại sao trong các sadhanas hay có những đoạn so sánh một vị hộ thần màu đen như đám mây xuất hiện cuối trời, hay là xanh như màu ngọc lục bảo, hoặc trắng như một ngọn núi pha lê, màu vàng như vàng ròng, hoặc màu đỏ như là những tia nắng nơi ngọn núi san hô đỏ...Trong các sadhanas cũng có nói rằng các ngài phủ đầy người một lớp tro của các buổi lễ trộn với dầu mè hoặc là phủ khắp người những vết mỡ, những đốm máu và mỡ người.


Khuôn mặt của các ngài thường có những biểu hiện như sau : miệng mở một cười giận dữ, từ đó ló ra những chiếc răng nanh - người ta hay nói những chiếc nanh đó được làm bằng đồng hoặc sắt. Những con mắt đỏ ngầu đầy máu biểu lộ cho sự phẫn nộ. Thường thì các ngài có 3 mắt.


Điều quan trọng nhất trong nhóm các hộ thần đó chính là nhóm 8 vị, được biết đến như là các hộ pháp chính của Phật giáo Tây Tạng ( Bát Đại Hộ Pháp ), các hộ pháp này được xem như những vị bồ tát, và các ngài có nhiệm vụ chiến đấu một cách không khoan nhượng với bất kì thế lực ma quỷ nào cũng như những kẻ thù của Phật giáo .


Họ bao gồm :


* Yama ( Dạ Ma )

* Mahakala ( Đại Hắc Thiên )
* Yamantaka ( Hàng Phục Dạ Ma )
* Kubera ( Tài Bảo Thiên Vương )
* Hayagriva ( Mã Đầu Minh Vương )
* Palden Lhamo ( Vị Nữ Thần )
* Tshangs pa ( Phạm Thiên Trắng)
* Begtse ( Thần Chiến Tranh )




Yama: ( Dạ Ma ) Thần chết






Dựa trên những truyền thuyết về nguồn gốc của Yama, một người đàn ông được một vị thánh cho biết rằng nếu ông ta nhập định 50 năm ở trong 1 hang động, ông ta có thể đạt được giác ngộ.

Thời gian cứ thế trôi đi, đúng vào đêm ngày thứ 29 của tháng thứ 11 của năm thứ 49. Hai tên trộm đã chạy trốn vào hang động của ông. Trong tay bọn chúng là cái đầu của con trâu mà bọn chúng giết trộm. Sau đó chúng mới phát hiện ra rằng người đàn ông đã biết được việc làm mờ ám của bọn chúng, bọn chúng quyết định giết ông để bịt đầu mối. Ông ta van xin bọn chúng tha mạng cho ông, bởi vì chỉ còn vài phút nữa là ông có thể đạt tới giác ngộ. Nếu bị giết chết trước thời hạn 50 năm thì mọi công sức của ông bị đổ sông đổ bể.Bọn cướp phớt lờ trước lời van xin của ông ta, và cắt đứt đầu của ông ta.

Ngay lúc đó, ông ta lập tức biến thành yama và đội cái đầu trâu vào cái xác không đầu của mình. Yama giết chết hai tên cướp và uống cạn máu của chúng bởi cái chén được làm bằng sọ của bọn chúng.Trong cơn điên cuồng báo thù, Yama đe doạ tiêu diệt hết tất cả dân Tây Tạng.
Người dân Tây Tạng nguyện cầu đức Văn Thù Sư Lợi , xin ngài bảo vệ dân chúng trước cuộc báo thù của Yama. Văn Thù Sư Lợi liền vận dụng thần thông hoá thân thành Yamantaka ( Hàng phục dạ ma ), ngài đánh bại Yama,để cứu giúp dân chúng, đồng thời ngài khiến Yama trở thành một trong những hộ pháp của Phật giáo.


Chúng ta thường thấy Yama hay xuất hiện trong thangka với một phối ngẫu của mình, Chamundi, là người dâng cho Yama một chén tiên dược máu quỷ ( cam lồ máu ). Và những xác người chết như là thứ trang sức của Yama. Yama có màu xanh đen của đầu con trâu .





Mahakala : Đại Hắc Thiên



Huyền thoại về lịch sử của Mahakala được viết bởi Khedrup Khyungpopa, là người sáng lập dòng truyền thừa Shangpa Kagyu, vào thế kỉ thứ 11. Ngài dạy rằng sức mạnh đặc biệt cũng như năng lực kì diệu của Mahakala là do nguyện lực của đức Avalokiteshvara ( Quan Thế Âm ). Ngài nguyện còn sinh tử và quyết không thành Phật nếu còn chúng sanh chưa được giác ngộ. Sau khi giúp hàng vô lượng người, trong vô số đời đạt tới giác ngộ . Ngài thấy rằng sự đau khổ không hề giảm sút mà hơn thế nữa sự ô nhiễm trong tâm thức chúng sanh ngày một tăng trưởng. Ngài thấy thất vọng, nhụt chí. Lúc đó lập tức đầu Ngài vỡ tan thành trăm ngàn mảnh vụn.



Phật A Di Đà ( Amitabha) một trong 5 vị Phật ( Tỳ Lô Giá Na Phật, Bảo Sanh Phật, Khai Phu Hoa Vương Phật , A Di Đà Phật, Thiên Cổ Lôi Âm Phật ) ghép những mảnh vỡ lại, và biến thành 11 đầu. Sau đó ngài dặn dò đức Avalokiteshvara hãy thực hiện lại lời nguyện đó một lần nữa, nhưng giữ lời nguyện đó tốt hơn, kiên cố hơn. Do đó Avalokiteshvara có mười một đầu, và trong đó có mười đầu là hiền hoà và một đầu là phẫn nộ. Đầu phẫn nộ đó chính là đại diện cho Mahakala.

Ngài Avalokiteshvara buồn bã, trong khoảng thời gian 7 ngày. Ngài nghĩ rằng trên thế giới đầy những chúng sanh đau khổ cần một kết quả thật nhanh chóng mà không phải có quá nhiều nỗ lực. Sau đó ngài muốn biến mình thành một bổn tôn phẫn nộ để đánh bại nhanh chóng và hiệu quả hơn những trở ngại cho hạnh phúc của người khác. Với tư tưởng này chữ Hum màu xanh đậm xuất hiện từ trái tim ngài. Chủng tự Hum đó đã trở thành Mahakala. Điều đó có nghĩa rằng trong câu thần chú “Om Mani Padme Hum”, chủng tự Hum tượng trưng cho sức mạnh, quyền năng.

Sự xuất hiện của Mahakala kéo theo sự rung động của mặt đất, đồng thời có giọng nói của chư Phật vang vọng trong không trung chứng minh rằng Mahakala có đủ quyền năng làm ban phát những gì chúng sinh mong muốn nếu những mong muốn đó là trung thực và tốt.

Mahakala là một hộ thần giám hộ cho người thống trị Mông Cổ- Thành Cát Tư Hãn- lúc bấy giờ. Sự phẫn nộ của Mahakala được xem giống như hoá thân phẫn nộ của thần Siva. Ở Tây Tạng, về hình ảnh của Mahakala thường có một đầu và ba mắt, lông mày như những ngọn lửa nhỏ và râu thì có dạng như hình móc câu. Mahakala có từ 2 đến 6 tay.

Điều tự nhiên cơ bản mà dân Tây Tạng thường thờ cúng Mahakala có lẽ là vì ngài là vị thần của lều trại. Bởi vì dân Tây Tạng sống du mục, do vậy thời gian ở lâu mau là phụ thuộc vào thiên nhiên và môi trường xung quanh, do vậy họ dùng lều trại, việc di chuyển và định cư tạm thời là một phần quan trọng của cuộc đời họ.

Ngoài ra ngài còn là một Hộ Pháp rất quan trọng, bởi thế cho nên ở mỗi tu viện đều có một nơi thờ Mahakala.



Yamantaka ( Hàng Phục Dạ Ma )


Yamantaka, là một hoá thân phẫn nộ của Văn Thù Sư Lợi ( Bồ Tát của trí tuệ ), Yamantaka là hoá thân phức tạp và phẫn nộ khủng khiếp nhất trong tất cả các hoá thân phẫn nộ của Phật giáo. Ở hoá thân này, Văn Thù Sư Lợi đã hàng phục được thần chết Yama, khi mà Yama đang trong cơn khát máu điên cuồng trả thù giết hại dân Tây Tạng .



Theo truyền thuyết, trong đại định, Văn Thù Sư Lợi đi khắp tất các nơi trong địa ngục để tìm kiếm Yama. Cuối cùng ngài đã tìm ra được nơi trú ngụ của Yama và các thuộc hạ của mình đó là một thành phố sắt ở địa ngục. ( Yama lúc này mang hình dáng thân người đầu trâu nước).


Để điều phục Yama, Văn Thù Sư Lợi sử dụng hình dạng như vậy, nhưng thêm vào đó tám đầu và nhân lên nhiều tay, mỗi cánh tay đều cầm những thứ vũ khí đáng sợ. Và hơn thế nữa từ trong thân ngài mọc ra thêm một số lượng chân tương ứng, xung quanh ngài là một số lượng lớn những chúng sanh đang kinh hãi. Để đối đầu với cái chết, ngài hiện thân như chính bản thân của thần chết được nhân lên nhiều lần. Thần chết Yama thấy được bản thân nhưng sự khủng khiếp lại gấp nhiều nhiều lần. Lúc này thần chết Yama gặp phải tình cảnh đúng nghĩa là "sợ muốn chết".

Đó là lý do tại sao các nhà yogi khi thực hành pháp yamantaka , thông qua hình tượng yamantaka họ sẽ phát tiển được định lực đủ mạnh để đối diện với cái chết, cũng như các sự sợ hãi về cái chết. Mỗi đầu, mỗi cánh tay, mỗi bàn chân cho đến từng thái độ, từng món trang sức, tất cả biểu tượng đó của Yamantaka đều là những mảng giác ngộ tối cần thiết cho việc đối diện với cái chết.

Cả Yama và Yamantaka đều mang hình tướng là đầu trâu nhưng Yama thì luôn có một món trang sức hình bánh xe ở trên ngực, đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt hai vị hộ pháp này.










Kubera (Vaisravana) ( Tài Bảo Thiên Vương )



Theo thần thoại Hindu, Kubera là con trai của một nhà hiền triết gọi là "Visravas", vì vậy ngài được đặt theo tên cha mình là "Vairavana". Truyền thuyết nói rằng do sự tu tập nghiêm chỉnh, sự mộc mạc, chân thật của mình trong hàng ngàn năm. Brahma ( Phạm Thiên ), đấng sáo tạo trong thần thoại của Hindu, đã ban cho ngài sự bất tử và biến ngài thành vị thần của tài bảo. Ngài là vị thần bảo hộ cho tất cả các kho tàng của trái đất. Ngài sẽ ban phát kho tàng này cho những ai xứng đáng.



Nơi ở của Kubera là ngọn núi Kailash ( một đỉnh núi linh thiêng, mà người dân Tây Tạng rất hay hành hương tới, tương truyền ai tới được ngọn núi linh thiêng này thì dường như đã tịnh hoá được rất nhiều nghiệp lực, cũng như đã tiến một bước rất dài trong con đường tu tập - người dịch ). Nhưng khi được Brahma bổ nhiệm làm Thần Tài Bảo, thì Brahma cho ngài vùng Lanka ( Ceylon) làm thủ phủ của ngài.



Cũng dựa theo truyền thuyết, ngài cũng được Brahma tặng cho chiếc xe pushpaka, là chiếc xe khổng lồ và di chuyển theo ý nghĩ của chủ nhân với một tốc độ khủng khiếp.

Kubera cũng được thờ cúng bởi các Phật tử, ông được xem như là một vị bảo hộ của phương Bắc ( trong một số tài liệu còn nói Kubera chính là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, người trấn giữ ở phương Bắc, chủ về tài bảo -nd ). Biểu tượng đặc trưng của ông chính là con chồn. Con chồn đặc biệt này luôn nhả ra châu báu.

Theo Phật giáo , ngài còn được gọi là Jambhala. Ngài luôn xuất hiện dưới hình tướng to béo và được bao phủ bởi châu báu. Chân phải của ngài lúc nào cũng đạp lên một cái vỏ ốc nằm trên một bông sen ( vỏ ốc này tượng trưng cho tốc độ khủng khiếp của ngài ).



Hayagriva : Mã Đầu Minh Vương




Hayagriva được thờ cúng ở Tây Tạng một cách chính yếu bởi những người buôn ngựa bởi vì người ta tin rằng Hayagriva doạ và đuổi ma quỷ đi bởi tiếng ngựa hí vang trời. Khi người ta thỉnh, ngài sẽ báo hiệu việc giáng lâm của ngài bằng tiếng hí, đó là lý do có cái đầu ngựa trên đảnh đầu, một dấu hiệu đặc trưng của Hayagriva.


Âm thanh vang ra từ đầu ngựa, theo như truyền thuyết là có khả năng xuyên thủng màn vô minh, đem lại ánh sáng chân thật của tự do. Thần chú của ngài có chứa những câu thơ như sau.





"Nguyện cầu ngài bảo vệ đàn ngựa


Tăng thêm số lượng ngựa cái
Từ những con ngựa này sẽ sinh thêm nhiều chú ngựa con siêu phàm
Xin ngài hãy dẹp hết những chướng ngại trên đường


và hướng cho chúng con đi đúng hướng"





( do lối sống du mục của người Tây Tạng, nên ngựa là một thứ quan trọng không thể thiếu trong sinh hoạt thường nhật của họ )





Hayagriva là một hoá thân phẫn nộ của đức Avalokiteshvara ( Quan Thế Âm ), theo những khảo cứu thì có tới 108 hình tướng của Hayagriva. Năng lực đặc biệt của ngài là chữa bệnh, nhất là các bệnh về da, thậm chí cả những bệnh về da khá trầm trọng như là bệnh phong. Bệnh này được tin rằng do Naga gây ra ( Naga là loài rồng nhưng có hình tướng giống như rắn, rất thích sống ở khu vực sông nước, ao hồ, biển cả...).





Hình tướng đơn giản nhất của ngài thì có một mặt, hai tay và hai chân. Tất cả mọi thứ về ngài đó là khuôn mặt đáng sợ với ba con mắt, cái miệng đang gầm rống đầy những răng nanh, tư thế đứng của một chiến binh, chiếc bụng to lớn ẩn chứa một nội lực phi phàm trong đó. Tay phải ngài vung thanh kiếm để đe doạ đối phương, tay trái giơ lên phụ trợ trong một tư thế đáng sợ, đồ trang sức của ngài đó là những con rắn.





Nét đẹp của ngài lại là những điều đáng sợ nêu ở trên, bởi vì chính cái khía cạnh đáng sợ đó lại là biểu lộ của sự từ bi, chính cái đáng sợ đó giúp ta buông bỏ được bản ngã, và xuyên thủng được màn vô minh....



Palden Lhamo : Vị nữ thần






Palden Lhamo là vị nữ hộ pháp duy nhất trong nhóm 8 hộ pháp lớn của Phật giáo. Ngài là nữ hộ pháp bảo vệ cho chánh pháp ở khắp mọi nơi, bao gồm cả đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà nước Tây Tạng, thủ phủ Lhasa. Đồng thời ngài cũng là nữ hộ pháp cho đất nước Trung Quốc từ triều đại nhà Nguyên thế kỉ 13 cho tới những ngày cuối cùng của triều đại nhà Thanh đầu thế kỉ 20.






Ở Ấn Độ, Palden Lhamo còn được gọi là Shri Devi. Ngài còn là là nữ thần Okkin Tungri ở miền Bắc Mông Cổ. Ngài cũng được xem như là một hoá thân phẫn nộ của Saraswati ( Biện Tài Thiên ) vị nữ thần của sự học tập, của sự biện tài ( ăn nói ), và của âm nhạc. Một hoá thân khác của ngài là Chamudi, phối ngẫu của Yama. Lại cũng có thuyết nói ngài là một phối ngẫu của Mahakala.



Là nữ hộ pháp duy nhất trong việc bảo vệ chánh pháp, thế nên tương truyền rằng những thứ vũ khí của ngài vốn là được các thần khác trao tặng. Hevajra tặng cho ngài hai hạt xúc xắc để định đoạt sinh mạng của con người, Brahma tặng ngài chiếc quạt làm bằng lông công, từ Vishnu ngài được tặng hai chiếc đèn sáng rực( giống như hai viên ngọc toả hào quang ). Một chiếc thì được ngài cài trên đỉnh đầu, chiếc còn lại được ngài đeo vào ngang eo. Kubera, Thần Tài Bảo, đã cho ngài một con sư tử ( trang sức hình sư tử ) và được ngài đeo ở tai phải. Nanda, Thần rắn, đã ban cho ngài một con rắn ( trang sức hình con rắn ) và được đeo ở tai trái của ngài. Từ Vajrapani ( Kim Cang Thủ ) ngài nhận một chiếc búa sấm sét. Những vị thần khác ban tặng ngài một con la, được bao bọc bởi bộ da của quỷ Dạ Xoa, và có những con rắn độc quấn quanh bụng. Người ta hay thấy ngài cưỡi con la này đi du hành khắp muôn phương.



Ngoài ra còn có một truyền thuyết nói rõ hơn về sự từ bi của ngài. Tương truyền là ngài đính hôn với một vị vua tên là Shenji, người vừa là một vị vua khát máu vừa là một chiến binh bạo tàn, ông ta từ chối hết những lời yêu cầu của Palden Lhamo khẩn cầu ông dừng giết hại dân chúng vô tội. Cuối cùng ngài đành đưa ra một tối hậu thư :



Nếu không dừng giết hại, bà sẽ giết những đứa con của mình có với nhà vua, để cho ông có thể trải nghiệm về nỗi đau người thân bị giết hại mà ông ta gây ra cho những người khác.


Shenji vẫn không dừng, thế là ngài thực hiện lời đe doạ của mình. Trước cái chết của con trai mình, ông ta đã buộc phải dừng lại.



Ngài hay được thấy mang theo xác của con trai mình trên lưng con la đi khắp nơi. Đây là biểu tượng cho quyết tâm không dừng lại trước bất cứ điều gì để đem lại sự an bình cho tất cả.




Tshangs Pa ( Phạm Thiên Trắng )




Brahma (Phạm Thiên) , là một vị thần quan trọng nhất đối với đạo Hindu, tuy nhiên đối với Phật giáo thì Phạm Thiên chỉ chiếm một ví trí thứ yếu. Tên tiếng Tây Tạng của Brahma là Tshangs Pa, chúng ta thường biết đến Brahma với hình tượng 4 đầu 2 tay. Nhưng trong Phật giáo Tây Tạng ngài luôn được biểu hiện với màu trắng, 1 đầu 2 tay và được gọi là Tshangs pa dkar po. Có nghĩa là Tshangs Pa Trắng.


Cũng theo như các sadhana, đây cũng là hình tượng của Brahma. Người ta thường thấy ngài ngồi trên lưng con ngựa trắng, giơ cao thanh gươm, đôi lúc có đeo lá cờ sau lưng. Ngài là một vị thần của chiến binh, nhưng không hiện thân quá khủng khiếp và man rợ. Đằng sau chiếc vương miện ngài là chiếc khăn mỏng có chứa cái vỏ ốc ( một trong những biểu tượng cát tường thường thấy của Tây Tạng-nd ). Ngài mặc những bộ quần áo dài tay và "bồng bềnh như mây".



Mặc dù các truyền thuyết đằng sau nguồn gốc của ngài, không có gì không khế hợp với Brahma, song chúng ta có một truyền thuyết khá thú vị:








Ekajati - Bà mẹ khủng khiếp






Thất vọng vì sự bại trận của mình, ngài Tshangs Pa lại tiếp tục cuộc hành trình của mình trong vũ trụ. Ngài bắt đầu giết tất cả những người thanh niên ở những nơi ngài đi qua, và cưỡng bức những cô gái mà ngài gặp. Một ngày nọ ngài gặp nữ thần Ekajati. Với ý định quấy rầy nữ thần, ngài bắt đầu buông lời ong bướm. Nữ thần Ekajati nổi giận và dùng chiếc khăn tơ lụa của mình đang choàng trên người để đánh ngài. Bị đánh vào đùi, chân ngài lập tức gãy lìa. Cái đánh của nữ thần ngay lập tức khiến cho ngài giác ngộ và trở thành một trong những hộ pháp của Phật giáo. Cái đánh này không có ý nghĩa là hành hung trên một khía cạnh vật chất. Nó chính là sự tấn công vào các phần tiêu cực, các khía cạnh đen tối của tâm thức và chuyển hoá nó. Bởi vì sức mạnh, năng lực vô biên của ngài được chuyển hướng vào việc bảo hộ và cúng dường cho chân lý, đã khiến ngài trở thành một trong những vị đại hộ pháp của Phật giáo. Trong lịch sử, đây cũng chính là hình ảnh đại diện cho sự hội nhập của tôn giáo cổ của Tây Tạng ( đạo Bon ) vào đạo Phật bởi đạo sư vĩ đại Padmasambhava ( Liên Hoa Sanh ).




Begtse: Thần Chiến Tranh




Người chiến binh man rợ này, vốn là một Dạ Xoa, là vị thần của chiến tranh ở vùng Trung Á, mặc áo giáp và trang phục của quân Mông Cổ, xuất hiện trong Phật Giáo Tây Tạng vào nửa cuối thế kỉ 16, là hộ pháp cuối cùng gia nhập vào nhóm 8 vị hộ pháp.

Theo truyền thuyết,Begtse xuất hiện trước khi Dalai Lama, người lãnh đạo của một đội quân động vật. Đức Dalai Lama được mời từ Tây Tạng tới Mông Cổ do vua của Mông Cổ lúc bấy giờ là Atlan Khan ( con cháu của Thành Cát Tư Hãn) để chuyển dổi Phật giáo thành quốc giáo của Mông Cổ.



Biết được việc này nên đức Dalai Lama liền hoá thành Quan Âm Tứ Thủ Avalokiteshvara, vị Bồ Tát của lòng từ bi, hai tay của ngài chắp trước ngực tạo thành ấn nguyện cầu. Bước chân của con ngựa ngài cỡi, in lên trên cát không phải là dấu chân mà lạ thay lại là câu thần chú Om Mani Padme Hum.Tận mắt chứng kiến phép màu này, Begtse liền tin tưởng ngay vào tính ưu việt, sự vượt trội của Phật giáo và tự động quy phục, và chuyển sang Phật giáo. Người ta nói sự quy phục của Begtse chính là hình tượng cho việc chuyển đổi quốc giáo của Mông Cổ thành Phật giáo.



Ngài xuất hiện với đầy đủ các thứ phục trang như các hộ pháp khác, giơ cao một thanh gươm ( cán gươm có hình con bò cạp ) trong tay phải. Tay trái thì nắm một chiếc đầu của kẻ thù màu cam, ta còn có thể thấy ngài giương cung tên cùng lúc đó. Ngài đạp lên xác chết của người đàn ông bằng chân trái, chân còn lại thì ngài dẫm lên cái xác chết của con ngựa. Ba con mắt của ngài đầy sự phẫn nộ,nhìn trừng trừng đủ để đe doạ những kẻ phá hoại chánh pháp.

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Phật là gì?


Phật là chữ viết tắt của Phật-đà, đây là danh hiệu phiên âm từ tiếng Phạn hoặc Pali Buddha ( sangs rgyas)sang Hán-Việt; dịch ý là Giác giả , tức “Người tỉnh thức”. Một cách gọi khác là Bụt (chữ Nôm).
Ý nghĩa của từ Phật có thể được hiểu như là: vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, một Bậc giác ngộ, Phật tính, hoặc Thể tính tuyệt đối Bất khả tư nghị.

Tượng Phật A-Di-Đà tại Nhật 

Người giác ngộ

Phật là người đã dứt khỏi Luân hồi (samsāra), đạt giác ngộ hoàn toàn, đạt Giải thoát, chứng Niết-bàn. Nội dung quan trọng nhất của giáo pháp giác ngộ là Tứ diệu đế. Phật là người đã vượt qua mọi tham ái, là người biết phân biệt thiện ác, nhưng tâm không vướng mắc vào các phân biệt đó. Sau khi chết, một vị Phật không còn tái sinh.
Người ta phân biệt hai quả vị Phật: Độc Giác Phật (pratyeka-buddha), là người hoàn toàn giác ngộ, nhưng không giáo hóa, và Tam-miệu-tam-phật-đà (samyak-sambuddha), dịch ý là Bậc Chính Đẳng Chính Giác, người giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ. Một Chính Đẳng Chính Giác là một vị đã đạt Nhất thiết trí (sarvajñatā), Mười lực (Thập lực, daśabala), chứng Bốn tự tin (Tứ vô sở uý). Vị Phật của thời đại chúng ta là Thích-ca Mâu-ni. Phật Thích-ca—một nhân vật lịch sử có thật—không phải là vị Phật đầu tiên và duy nhất. Trong những kinh Nikàya Pali, người ta đã nhắc các vị Phật trong các thời đại trước: Tì-bà-thi (vipaśyinvipassi), Thi-khí (śikinsikhī), Tì-xá-phù (viśvabhūvessabhū), Ca-la-ca-tôn-đại (krakuccandakakusandha), Câu-na-hàm (konagāmana) và Ca-diếp (kāśyapakassapa). Vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai để tiếp tục hoằng pháp là Di-lặc (maitreyametteyya). Trong kinh sách, người ta còn nhắc đến 13 vị Phật khác mà vị quan trọng nhất là Phật Nhiên Đăng (dīpaṅkara). Trong thời quá khứ, Phật Thích-ca là người tu khổ hạnh mang tên Thiện Huệ (sumedha), đệ tử của Phật Nhiên Đăng. Lịch sử các vị Phật được ghi trong Tiểu bộ kinh (khuddaka-nikāya).
Bắt đầu con đường tiến đến Phật quả, một vị Bồ Tát phát nguyện trước một vị Phật, quyết tâm thành đạo giác ngộ. Trải qua vô lượng kiếp, vị Bồ Tát đó thực hành mười hạnh Ba-la-mật-đa. Trước khi sinh lần cuối, vị đó thường giáo hóa ở cung trời Đâu-suất (tusita). Khi sinh lần cuối vị Phật sẽ mang trong người Ba mươi hai tướng tốt, Tám mươi vẻ đẹp khác cũng như đã đạt 37 Bồ-đề phần. Các vị Phật khi sinh ra thì mẹ của các vị sẽ chết bảy ngày sau đó. Lúc lớn lên, đến thời kì thích hợp, các vị Phật sẽ sống không nhà và sau khi giác ngộ sẽ thành lập Tăng-già. Lúc Phật nhập Niết-bàn là cũng là lúc chấm dứt quá trình đạt đạo.

Thích-ca Mâu-ni
Nhân vật lịch sử Thích-ca Mâu-ni sinh năm 563 TCN nhưng cũng có thuyết nói sinh năm 624 TCN, con trai của một tiểu vương thuộc dòng họ Thích-ca, ngày nay thuộc nước Nepal, gần Hi-mã-lạp sơn. Tên thật của vị này là Tất-đạt-đa, thuộc họ Cồ-đàm, vì vậy cũng có người gọi vị Phật này là Phật Cồ-đàm. Sau quá trình tu hành đạt đạo, Phật này mang danh hiệu Thích-ca Mâu-ni nghĩa là Trí giả trầm lặng của dòng Thích-ca (danh từ tiếng Phạn muni chỉ một trí giả, đặc biệt là trí giả trầm mặc tĩnh mặc). Khi muốn phân biệt vị Phật lịch sử này với Phật tính (xem bên dưới), người ta gọi rõ tên là Phật Thích-ca.

Phật Tính
Phật tính, được xem là gốc của mọi hiện tượng; mọi hiện tượng là biểu hiện của Phật tính. Nếu phái Tiểu thừa chỉ công nhận mỗi thời đại chỉ có một vị Phật, và vị này là phải là một nhân vật lịch sử và là đạo sư giáo hóa, thì Đại thừa cho rằng có vô số vị Phật được biểu hiện khác nhau. Theo quan điểm Tam thân (trikāya) của Đại thừa thì Phật tính biểu hiện qua ba dạng chính và mỗi dạng Phật biểu hiện một tính chất của Chân như.
Các dạng siêu việt của Phật tính, Chân như được kể là các vị Phật A-di-đà, Đại Nhật, Bảo Sinh, Bất Động, Bất Không Thành Tựu, Kim Cương Tát-đỏa. Các vị này là thầy của các vị Bồ Tát và là giáo chủ của các Tịnh độ. Các dạng Phật siêu việt của Chân như đều có tính chất siêu thế gian, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, vô lượng thọ. Theo quan điểm Tam thân thì Báo thân Phật (sambhogakāya) chính là hình ảnh lí tưởng của các vị Bồ Tát tự tạo nên để theo đó mà tu học. Báo thân lại chính là Chân tâm của Ứng thân, hay Hóa thân (nirmānakāya), là thân của Phật có dạng con người sống trên địa cầu. Khoảng năm 750 sau Công nguyên, sau khi Kim cương thừa ra đời thì trong các trường phái Đại thừa cũng chấp nhận ngoài Pháp thân (dharmakāya) có thêm năm vị Phật chuyển hóa từ Pháp thân đó, được gọi là Ngũ Phật hay Phật gia, vì mỗi một vị Phật đó được xem có thêm một vị Phật lịch sử (từng sống trên địa cầu) và một vị Bồ Tát đi kèm:
1.      Cùng với Phật Đại Nhật là vị Ca-la-ca-tôn-đại (krakuccanda) và Phổ Hiền Bồ Tát (samantabhadra).

2.      Cùng với Phật Bất Động, tức là A-Súc-Bệ Phật (aksobhya) là vị Ka-na-ca-mâu-ni (kanakamuni) và Kim Cương Thủ Bồ Tát (vajrapāni).

3.      Cùng với Phật Bảo Sinh là vị Phật lịch sử Ca-diếp (kāśyapa) và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapāni).

4.      Cùng với Phật Bất Không Thành Tựu là vị Phật Di-lặc và Phổ Chùy Thủ Bồ Tát (Viśvapāni).

5.      Cùng với Phật A-di-đà là Phật Thích-ca Mâu-ni và Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara).

 Phật Lực
Một điểm giống của Phật giáo đối với các tôn giáo lớn khác trên thế giới là vị thánh tối cao của Phật giáo- đức Phật tổ, trong niềm tin của Phật tử, có khả năng vô hạn, thể hiện qua bốn chữ "Phật pháp vô biên". Trong các tôn giáo khác thì người ta có từ "Thiên chúa toàn năng". Tất cả những danh xưng trên đều thể hiện không có gì mà các vị thánh tối cao không làm được và không ai cao hơn các vị thánh này.
Quan điểm này rất mạnh trong lòng tin của những người bình dân. Trong văn học dân gian hay trong văn học bác học Trung quốc (Tây du ký), cùng như trong các câu chuyện về đức Phật, người ta bắt gặp các vị thần như Thượng đế, thần Mưa, Gió, Sấm, Chớp,... đều có thể bị đánh bại trước một nhân vật nào khác, song khi Phật xuất hiện thì mọi đối thủ đều phải chịu sự ràng buộc.

Thể Tính Tuyệt Đối
Một khái niệm chỉ cái tuyệt đối, cuối cùng của thế giới. Thể này nằm ngoài mọi suy luận, không thể nghĩ bàn (Bất khả tư nghị), là bản thể không hề biến hoại của Phật tính.


Tam Thế Phật
Kinh văn đôi lúc cũng nhắc đến Tam thế Phật, nghĩa là Phật của ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ ba vị Ca-diếp (kāśyapa), Thích-ca Mâu-ni (śākyamuni) và Bồ Tát Di-lặc (maitreya), Phật tương lai. Có khi tranh tượng trình bày Phật Nhiên Đăng (Nhiên Đăng Thượng Cổ Phật, dīpankaraDipankara) là Phật quá khứ.

Phật là gì?
Ngày nọ có người theo đạo Bà-la-môn tên Dona , nhân khi thấy dấu chân của Đức Phật in dưới cát có những đặc điểm lạ thường , đến gần Ngài và hỏi :
- Phải chăng Ngài là một vị Trời ( Deva) ?
- Không , quả thật tôi không phải là một vị Trời .
- Vậy , phải chăng Ngài là một nhạc công trong cảnh trời (Càn-Thát-Bà, Gandhabba) ?
- Không , tôi không phải là một nhạc công trong cảnh trời .
- Vậy Ngài là quỷ Yaksa (Dạ-Xoa) chăng ?
- Không , quả thật tôi cũng không phải là quỷ Yaksa (Dạ-Xoa) .
- Như thế chắc Ngài là người ta ?
- Không , quả thật tôi cũng không phải là người ta .
- Vậy xin cho biết Ngài là ai .
Đức Phật trả lời rằng Ngài đã tận diệt những pháp trầm luân tạo điều kiện để tái sanh vào những cảnh Trời , Gandhabba , Yaksa hay cảnh Người , Ngài nói : “Ta là Phật .”
Đức Phật không hề tự xưng là hiện thân (Avatara) của thần Vishnu - một thần linh Ấn Độ giáo mà kinh Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền diệu , sanh ra để bảo vệ sự chân chính , tiêu diệt tội lỗi và củng cố đạo lý (Dharma) .

Đức Phật cũng không bao giờ tự gọi là “ Đấng Cứu Thế” , có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng chính sự cứu rỗi của mình . Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỉ bước theo dấu chân Ngài, không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát lấy mình bời vì cả hai , trong sạch và bợn nhơ , cũng đều tuỳ thuộc nơi chính mình .
"Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm ". – kinh Pháp Cú câu 165
Đức Phật đã dạy minh bạch rằng :
“ Các con phải tự mình nỗ lực , các Đấng Như Lai chỉ là Đạo Sư”. - kinh Pháp Cú câu 276
Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh . Đi trên con đường và theo đúng phương pháp là phần của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống .

Đức Phật là một người như chúng ta . Ngài sinh ra là một người , sống như một người và từ giã cõi đời như một người . Mặc dầu là Người , Ngài trở thành một Người thầy siêu phàm ( Achariya Manussa) do những đặc tánh duy nhất của Ngài .
“ Ỷ lại nơi kẻ khác để giải thoát cho mình là tiêu cực , chỉ tuỳ thuộc nơi mình để tự giải thoát quả thật là tích cực “. Đức Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để cho chúng ta lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt .

Tế Công Hòa Thượng



Phật Sống Tế Công người đời Nam Tống (1150-1209) nguyên quán thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, họ Lý tên Tu Duyên quy y tại chùa Linh Ẩn ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, pháp danh Đạo Tế, vì thường dùng kế giả điên để cứu đời nên thế nhân thường gọi đùa là Tế Điên. Thân Phật Sống là Kim Thân La Hán hóa thân, là Giáng Long Tôn Giả, thông hiểu sâu xa tam muội, tức là chính định, điều tâm tĩnh tọa để đạt trạng thái trực giác vô tư lự hầu thấu triệt cùng liễu ngộ Phật pháp, ý là: “Muôn pháp vốn xuất hiện bởi tâm” (Vạn pháp duy tâm sở hiện). Và tu thẳng tâm Phật không nhờ phương tiện, nên nói: “Tu tâm không tu miệng để trở thành Phật sống” (Tu tâm bất tu khẩu, tố cá tự tại Phật) vì lẽ các tăng ni thời đó chỉ “giới khẩu” không “giới tâm” cho nên Phật Sống nói lên tiếng cảnh tỉnh để giúp họ giác ngộ. Ngài thần thông quảng đại, cứu nhân độ thế, trượng nghĩa phò nguy, đối với bọn giả thiện chuyên làm điều ác ngài thường giễu cợt để khiến bọn đó giác ngộ. Nhưng riêng đối với lũ làm ác không biết hối cải ngài thẳng tay đả kích không ngần ngại, khiến người đời rất ư khoái trá, bởi vậy mọi người gọi ngài là thánh tăng, tôn ngài là Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhiên. 

Phật Sống từng ở chùa Tịnh Từ, chùa gặp hỏa hoạn, cần gỗ để trùng tu, Phật Sống hành hóa tới Nghiêm Lăng, dùng áo cà sa trùm các núi, nhổ trụi cây đem thả sông cho trôi về Hàng Châu. Ngài về báo cho chúng tăng trong chùa là “gỗ ở trong giếng Hương Tích” chúng tăng chạy ra coi thì quả nhiên có thực, những chuyện lạ như vậy đời truyền tụng rất nhiều.

Khoảng năm Gia Định (1209) ngài viên tịch, an táng tại tháp Hổ Bào, phút lâm chung có làm một bài hát:

Ca viết

Lục thập niên lai lang tạ
Đông bích đả đảo tây bích
Ư kim thu thập quy lai
Y cựu thủy liên thiên bích.

Hát rằng

Sáu mươi năm đời ta tan tác
Tường phía đông xô tường phía tây
Góp nhặt mãi vẫn về tay trắng
Nước liền trời biếc một màu mây.

Sau khi nhập diệt, có vị tăng gặp Phật Sống dưới chân
tháp Lục Hòa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ
như sau:

Thơ

Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
Chí kim do giác cốt mao hàn
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
Hựu vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên.

Dịch

Nhớ xưa trước mắt chắn tên bay
Xương thịt cớ sao lạnh lúc này
Mặt mũi hỏi ai còn nhớ nổi
Thiên Thai ta lại tới vui vầy.

Như vậy là Bồ Tát đã hứa hẹn sẽ trở lại trần gian. Phật Sống suốt đời cứu độ hành hóa, dạo cõi nhân gian để chọc tức chọc cười, không lo lắng ngại ngùng tu “hạnh đầu đà” tức là tu khổ hạnh, hành đạo Bồ Tát, một manh áo cà sa rách rưới, vui cảnh đời thoát tục. Đôi giày rách sũng nước ngập bùn, tay cầm quạt Bồ chẳng sợ trên cao dưới thấp, đỉnh đầu sáng chói hào quang, gió chẳng dập, mưa chẳng vùi há còn cần nón lá? Chân không, lạnh nóng chẳng xâm phạm, cần chi áo mặc? Không khất thực vì chẳng đói khát. Lười trang nghiêm vì thiếu da lông, khôi hài cười cợt, kết thiện duyên rộng rãi, trần thế chẳng lánh mặt, tìm tiếng cứu khổ, trăm họ giành nhau tôn kính, từ bi vô lượng, thánh đức tuyệt vời, không một tăng sĩ lánh đời ẩn tu nơi chốn thâm sơn cùng cốc nào sánh nổi. Mỗi lời mỗi tiếng như gai nhọn dao sắc châm chọc, lìa nhà từ miền Ngũ Nhạc tri thức vốn khoan dung, cho nên đời sau chốn cửa Phật nào tự cho mình là thanh cao ắt tránh né không bàn tới. Vì vậy mà một bực cao tăng thánh đức bị mai một không hiển lộ nổi, may mà Phật tôi từ bi không than oán, không chán nản, sống siêu thoát ngoài vòng tục lụy, thể hiện pháp thiền khắp chốn, thực hành Phật pháp mang đầy sắc thái vui tươi, cho nên đại danh “thiền sư” vang dội khắp nơi. Tinh thần xuất thế vĩ đại chuyển thành công lao nhập thế tích cực, thực quả là gương sáng cho những ai ngày nay học Phật tu đạo, cho nên khi được đời tặng thánh danh “Phật Sống” kể cũng hữu lí lắm vậy. Nay gặp thời mạt pháp, chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt, đắm chìm biển khổ, Phật Sống quyết tâm cứu độ người đời cho nên diệu pháp thần thông ngày trước lại tỏ ngời, phát nguyện hiện thân trở lại, giáng lâm Thánh Hiền Đường, hướng dẫn nguyên linh Dương Sinh dạo thăm âm phủ, sưu tầm những bằng chứng xác thực để răn đời. Từ đấy những điều bí mật tại địa ngục được tiết lộ, tạo thuyền từ để cứu độ chúng sinh. Những ai có phước được tắm mưa pháp, vĩnh viễn xa lìa đường ác. Vĩ đại thay, tác phẩm lớn lao đã hoàn thành, còn lưu lại muôn đời, ghi nhớ hoài đức lớn.

TỤNG VIẾT

Đương đầu hát bổng, hoán hồi thế thượng mê đồ
Nhất tiếu niêm hoa, bản thuộc thiền môn diệu quyết
Nhân sinh như hí, diễn đắc xuất thần nhập hóa
Vạn pháp quy tâm, biến du địa ngục thiên đường.

LỜI TỤNG

Đem đạo vào đời, kêu gọi mọi người tỉnh ngộ
Cầm hoa mỉm cười, cửa thiền diệu pháp bí truyền
Một vở tuồng đời, đóng vai vào Thần ra Phật
Nhập tâm muôn pháp, dạo khắp địa ngục thiên đường.