Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Kim Cang Phổ Ba - Vajra Kilaya

Ngài Phổ Ba Kim Cang có đầy đủ oai lực và lòng từ bi không gì so sánh được, có khả năng đọan trừ những bức hại của quỷ thần, phi nhơn, thiên ma, ác thú (trù yểm). Đồng thời cũng có khả năng hàng ma, chấm dứt tai họa và tiêu trừ các khó khăn nguy hiểm. Phổ Ba Kim Cang , dịch âm Hán là Đa Kiệt Thuấn Nỗ, ý là Kim Cang Nhụ Đồng.


Theo âm Tây Tạng, Phổ Ba là cái “Cọc gỗ”. Sở dĩ có âm nầy là vì trong tay Ngài có một pháp khí chủ yếu. Đó là một vật hình tam giác có đỉnh rất nhọn, được gọi là “Cọc Kim Cang” hay “Kim Cang Quyết”. Ngày nay còn gọi là “chày Phổ Ba” .Chữ “Phổ” là Tánh không . Phổ Ba là sự kết hợp giữa Tánh Không và Trí huệ mà thành chớ không phải ý của hai thể tánh.

Những hành giả Tây Tạng tu theo Mật Tông ngày xưa thường chọn ngài Phổ Ba là Bổn tôn. Theo sự truyền thừa ở Tây Tạng, các phái Cát Cư Ba, Ninh Mã Ba, Cách Lỗ Ba, và Tất Ca Ba cả bốn dòng phái đều có Phổ Ba Kim Cang Pháp, tuy nhiên chỉ có hai phái Ninh Ma Ba và Tát Ca Ba đặc biệt coi trọng.

Phổ Ba Kim Cang có đầy đủ đại bi oai lực không gì sánh bằng, bên ngoài hiện tướng phẫn nộ để loại trừ tất cả những bức hại của chú yểm, Thiên Ma, phi nhơn , quỷ thần…. và hàng phục được ma quân để tiêu trừ tai nạn và nguy hiểm. Ngoài ra còn có khả năng để đối trị sự chấp trước, tham lam, phiền não của tự ngã, dứt trừ mọi chướng ngại từ trong nội tâm đến ngoại tướng.

Nhân duyên ngài Phổ Ba Kim Cang thị hiện được tương truyền như sau:

Ngày xưa trong rừng Tử Đà Lâm ( Rừng bỏ thây người chết) có một Đại Quỉ Thần trú ngụ tên là Ma Đương Lỗ Trác. Quỉ thần nầy có ba đầu, sáu tay, bốn chân, sau lưng có một đôi cánh thường đem nguy hại đến loài hữu tình trong tam giới.

Trong lúc đó ngài Kim Cang Tát Đỏa hiện thân phẫn nộ Cát Mã Hắc Lỗ Ca. Để hàng phục vị Đại quỉ thần nầy, ngài hóa thân thành Phổ Ba Kim Cang, thị hiện với hình tướng và sức mạnh như là Đại quỉ thần và không có sức mạnh hay oai thần nào sánh kịp.

Một thuyết khác lại nói rằng, ở giữa biên giới Ấn Độ và Nepal có một động đá tên là Lại Thư. Ngày xưa ngài Liên Hoa Sanh và công chúa Nepal là Thích Ca Đức Hoa trong lúc tu đạo thù thắng, có ba con quỷ đến gây chướng ngại làm gián đọan sự tu hành; đồng thời gây hạn hán cho vùng đất ấy trong ba năm không một hạt mưa; bịnh dịch hoành hành, và bịnh đói kém kéo dài nhiều năm. Vì thế mà ngài Liên Hoa Sanh đã phái hai sứ giả đến Ấn Độ, mang theo phép trừ gián đọan tên là Phổ Ba để truyền lại rồi trở về. Trong khi sứ giả đang hành pháp để chống lại thì ba vị quỷ nầy đều tự động tránh xa, lập tức trời mưa xuống và bịnh dịch cũng chấm dứt.

Lại tương truyền rằng: Ngày xưa, ngài Liên Hoa Sanh cùng đệ tử đi từ Tây Tạng vào xứ của Dạ Xoa, trên đường đi ngang qua một vùng tên là Khổng Than Lạp, một con đường mòn lõm xuống giữa hai hòn núi. Ngài Liên Hoa hóa thành hai thân người: một là Phổ Ba Kim Cang với thân thể sáng chói, còn thân kia vẫn là thân cũ của Ngài.

Ngài Liên Hoa Sanh hỏi các đệ tử: “Các con sẽ hướng về ai để đảnh lể.”

Các đệ tử đều trả lời :” Trước đây chúng con mỗi ngày đều thấy Liên Sư, mà chưa thấy được Bổn tôn Phổ Ba Kim Cang, đến ngày hôm nay mới được thấy Ngài, cho nên chúng con cần hướng về ngài Phổ Ba Kim Cang mà đảnh lễ”.

Trong số đó có một đê tử tên là Di Hỷ Tha Gia thưa rằng : “Từ trước đến nay con kính lễ Thượng Sư của con, hôm nay con cũng vẫn hướng về Thượng Sư của con mà đảnh lễ.” Vì thế mọi người trừ Di Hỷ ra đều hướng về Phổ Ba Kim Cang mà đảnh lễ.

Ngay sau đó, ngài Liên Hoa Sanh niệm: “Ban Tra Mãnh” lập tức thấy Phổ Ba kim Cang nhập vào thân của ngài Liên Hoa Sanh. Sự kiện nầy cho thấy rằng Bổn tôn chính là Thượng Sư hiện ra, mà chỉ có Di Hỉ Tha Da đã đặc biệt được Phổ Ba Kim Cang gia trì. Pháp Phổ Ba Kim Cang truyền thừa cho đến ngày hôm nay là từ ngài Di Hỷ Tha Gia. Đây là một lối nhận được sự truyền thừa từ phép gia trì đặc biệt.

Hình Tướng

Phổ Ba Kim Cang thân màu đen lam, có ba đầu mỗi đầu có ba con mắt, sáu tay, và bốn chân. Giữa một đầu màu lam, đại biểu tướng phẫn nộ của ngài Đại Thế Chí

(Kim Cang Thủ), đại biểu ý của chư Phật, mặt bên phải màu trắng đại biểu phẫn nộ tướng của ngài Văn Thù Bồ Tát (Đại Oai Đức Kim Cang) đại biểu thân của chư Phật. mặt phía bên trái màu đỏ, đại biểu A Di Đà Phật (có thuyết nói là Quan Thế Âm Bồ Tát) hiện tướng phẫn nộ (Mã Đầu Minh Vương) đại biểu “Ngữ” của chư Phật. Trong miệng của mỗi đầu có hai cái răng lộ ra xỉ lên trên và hai răng xỉ xuống dưới.

Sáu tay gồm có:

Tay thứ nhất cầm chày Kim Cang Thiên chế chín (9) cánh bằng sắt biểu lộ sự phẫn nộ, chín cánh biểu lộ cho tất cả chúng sanh trong tam (3) giới chín (9) thừa.

Tay thứ hai: Cầm chày Kim Cang năm (5) cánh chế bằng vàng biểu thị sự vui vẻ, năm cánh biểu thị chuyển ngũ độc thành trí tuệ.

Tay bên trái thứ nhất: cầm ngọn lửa trí tuệ bát nhã, biểu trưng cho sự thiêu đốt hết các phiền não.

Tay bên trái thứ nhì: cầm kích chĩa ba (tên tiếng Tây Tạng là khách chương ca) biểu tượng Không Hạnh Mẫu nhiếp hóa hết chúng sanh trong tam giới. Nguyên bản hai tay chấp lại đỡ cọc Kim Cang, biểu thị sự trừ sạch tất cả các chướng ngại và phiền não.

Sau lưng có hai cánh nhọn như lưỡi kiếm bén.

Hai chân bên phải đạp trên lưng hai con ma (nam) đàn ông, hai chân bên trái đạp vào ngực của hai con ma nữ (đàn bà).

Đứng yên trong ngọn lửa trí tuệ bát nhã. Ôm Phật Mẫu Kha Lạc Khiết Điệp, thân màu lam nhạt, tay phải cầm hoa sen xanh (thanh liên hoa), còn có truyền thuyết khác là cầm cây thiên trượng (gậy của trời), tay trái bưng bát sọ người, lưng mặc quần da báo.

Phổ Ba Kim Cang Phật Mẫu có hai vị: Một vị là Khẩu Lạc Cấp Đăng Ma, tướng rất vui vẻ, vị thứ hai là A Tùng Ma, tướng phẫn nộ. Tôn hình trình bày trong cuốn Tiêu Tai Tăng Phước Bổn Tôn trang 267 là đang ôm Ngài Phật Mẫu thứ nhất. Tay phải Phật Mẫu cầm Khách Chương Ca (kích chĩa ba) biểu thị đệ nhị Phật Mẫu A Tùng Ma.

Ngài mặc ba chiếc áo bằng ba loại da khác nhau: da voi biểu thị sự hàng phục ngu si, da người biểu thị sự hàng phục tham ái, da cọp biểu thị sự hàng phục sân hận. Đầu đội mũ bằng năm cái đầu lâu (ngũ khô lâu) biểu thị ngũ Phật trí. Cổ đeo ba vòng đầu người có tóc, trang sức bằng xương, và mang năm loại rắn để biểu thị năm loại rồng, có khả năng thống trị tất cả các loại có sưc mạnh ghê gớm nhất.

Phổ Ba Tự Chủng và Chơn Ngôn


Tự chủng: Hùm

Chơn ngôn:

Án, ban tạp, ki lợi, ki lạp nha, sa nhĩ ngõa, tỷ ca niệm, bảnh, hồng phôi

Án: (Ôm) = chỉ Phổ ba tự tướng

Ban tạp = Phổ Ba Kim Cang Phật Mẫu

Ki lợi (lị) = Phổ Ba Kim Cang thị hiện thành mười (10) tướng nam phẫn nộ

Ki lạp = Phổ Ba Kim Cang thị hiện thành mười (10) tướng nữ phẫn nộ

Nha = Đầu chày Phổ Ba (loại một mặt)

Sa nhĩ ngõa = Có tất cả trong đàn thành

Tỷ (tất) ca niệm = oán địch, quỷ linh, thần kỳ

Bảnh (bang) = oán địch, quỷ thần v.v…

Hồng = Tự chủng của Phổ Ba Kim Cang và oán địch, quỷ thần hiệp lại thành một

Phôi = khử tịnh thổ (làm cho đất thanh tịnh, tẩy uế)

I) Đôi điều về phẫn nộ tôn Vajrakilaya



Vajrakilaya (Kim Cang Phổ Ba) còn được gọi là Vajrakumara (Kim Cang Đồng Tử) có nghĩa là tuổi trẻ bất diệt. Ngài có 3 đầu, 6 cánh tay và 4 chân, là đại diện cho tam thân ( Pháp thân, Báo Thân, Hoá Thân), lục độ Ba La Mật ( Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Tuệ - Bát Nhã ) và Tứ Vô Lượng tâm ( Từ, Bi, Hỷ, Xả ). Ngài mang trên người tám món trang sức thường thấy của phẫn nộ tôn và đôi cánh hùng mạnh để tượng trưng cho những hành động nhanh chóng của ngài. Vị minh phi phối ngẫu của Vajrakilaya được gọi là Khorlo Gyedunma.Thân thể của bà mang màu xanh da trời, tượng trưng cho sự bất động và bất biến.
Vajrakilaya là một hoá thân phẫn nộ của Vajrapani (Kim Cang Thủ), còn phối ngẫu của ngài là hoá thân của Tara Xanh (Lục Độ Mẫu). Vajrapani là biểu tượng cho sức mạnh của chư Phật, còn Tara Xanh là biểu tượng của tất cả hoạt động tánh giác của chư Phật.


II) Chân dung Vajrakilaya (trong quán tưởng)



Vajrakilaya là một hộ thần mang tính khuôn mẫu trong truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Và sẽ nói ở phần sau, Kila hay Kilaya là một con dao găm có dạng tam giác, là đại diện cho thực tế tận cùng của ba cánh cửa giải thoát - tính trống rỗng, sự độc nhất, vô sở cầu - là sự đồng nhất của Tam Thân Phật, các năng lực này được huy động hết tất cả vào tại một điểm để chiến thắng tất cả mọi tội lỗi và chuyển hoá nó thành tốt lành. Sự thờ cúng Vajrakilaya vốn rất nổi tiếng ở Tây Tạng, Nepal, Mông Cổ và Trung Quốc. Tương truyền rằng những người sùng mộ nói chung khẩn cầu và thờ cúng vị hộ thần đầy quyền năng này để được bảo vệ khỏi những thế lực hắc ám và các linh lực ma quỷ, và cũng để dễ dàng lĩnh hội được những kiến thức bí ẩn.

Ngài Kim Cang  Thủ



Màu xanh đậm của làn da Vajrakilaya cho thấy trong sự hợp nhất khủng khiếp với phối ngẫu của ngài (trí tuệ - Prajna). Ngài đang nhảy múa một cách ngây ngất trong khi ôm phối ngẫu của mình. Cùng nhau, các ngài đại diện cho sự hợp nhất giữa trí tuệ ( nữ ) và phương tiện thiện xảo ( nam), và là những hoạt động của lòng bi mẫn. Biểu lộ của cả hai ngài đều là cực kì đáng sợ. Các ngài dẫm đạp lên một thân nam và một thân nữ đang nằm úp xuống, tượng trưng cho sự chiến thắng của các ngài trước những ảo tưởng, dục vọng.
Vajrakilaya với ba đầu, sáu tay và bốn chân. Ngài ôm phối ngẫu của mình bằng hai cánh tay chính yếu, và cũng dùng chúng để nắm giữ con dao găm tam giác kila - cũng còn được gọi là phurba - (trong cùng biểu hiện như khi ngài ở trạng thái không có phối ngẫu). Hai tay phải còn lại của ngài nắm giữ những chiếc chày kim cang, tay trái ở trên thì biểu thị những cử chỉ đáng sợ, còn tay trái ở dưới thì cầm một chiếc chĩa ba khatvanga.


Ba đầu của ngài (mỗi đầu có 3 mắt) đều đội vương miện đầu lâu cùng với trang sức. Tóc của ngài được xoã tung, tuy nhiên tại vị trí giữa đầu ngài thì được thắt lại bằng một cái nút được trang trí bằng một nửa chày kim cang và con rắn. Ngoài ra còn có một con Garuda ( Kim Xí Điểu) đang bay cùng với một con rắn ở trên đỉnh tóc của ngài. Hơn thế nữa ngài còn trang hoàng trên mình một chuỗi tràng hạt dài mà các hạt được kết bằng nhiều đầu người, da voi, da người, cái váy bằng da hổ, và các trang sức - khuyên tai, vòng đeo tay, những chiếc xuyến và vòng đeo chân - bằng vàng được thiết kế một cách sắc sảo.
Phối ngẫu của ngài (Trí Tuệ) thì được ôm sát vào ngài. Tay phải của bà quấn quanh cổ của ngài, và bà nâng chén sọ bởi tay trái của mình, và dâng lên ngài từng ngụm tiên dược trường sinh được chứa đựng trong đó. Chân phải của bà thì được thả dọc theo chân ngài, trong khi chân trái thì được quấn ngang eo của ngài. Bà cũng trang hoàng trên mình một cái vương miện đầu lâu cùng với nữ trang, một chuỗi hạt dài mà mỗi hạt là một cái sọ người, chiếc váy bằng da báo và những trang sức bằng vàng ròng.

Đức Tara Xanh - Hóa thân phối ngẫu Vajrakilaya


Có lửa bảo vệ và những đám mây ở phía sau lưng của ngài. Pháp thân Phổ Hiền trong trạng thái phối ngẫu thì ngồi trên những đám mây đó cùng với những tia sáng và cầu vồng. Sự bùng cháy và xoắn của ngọn lửa đằng sau Vajrakilaya thì còn được miêu tả như là kalagni, có nghĩa là "ngọn lửa thời gian". Văn chương mà nói thì là "ngọn lửa tại thời điểm tận cùng", dựa theo quan niệm Phật giáo thì đó là ngọn lửa tiêu huỷ toàn bộ vũ trụ tại cuối đại kiếp này.


III) Khai thị về thực hành Vajrakilaya

Dao Kila (Hay còn gọi là dao Phurba)
Vajrakilaya, hay kila, có nghĩa là một thứ gì đó sắc nhọn, một thứ dùng để đâm, chọc xuyên qua các thứ khác, đại loại như là một con dao găm. Một con dao găm mà nó quá bén đến mức có thể đâm xuyên mọi thứ, trong khi không thể có cái gì đâm xuyên qua được. Sự sắc bén và năng lượng xuyên thủng mọi thứ này là những gì được sử dụng trong thực hành và là phương pháp quan trọng nhất trong những phương tiện vô lượng không thể tính đếm của Kim Cang Thừa.

Vajrakilaya là một trong những bổn tôn phổ biến nhất được biến đến khi dùng để tiêu diệt những chướng ngại. Guru Rinpoche đã đạt được giác ngộ thông qua sự thực hành Yangdag Heruka, tuy nhiên trước đó ngài đã phải thực hànhVajrakilaya để dẹp, cũng như làm sạch những chướng ngại, và sau đó, thông qua đó, ngài thực hiện những phần còn lại và đạt được những gì ngài mong muốn. Do vậy, Vajrakilaya được biết đến thông qua sự dọn sạch những chướng ngại.

Vajrakilaya được biết đến như là những hiện thân của tất cả mọi hoạt động của chư Phật. Khi nói đến Vajrakilaya, thì chúng ta còn được biết đến ngài như là một hoá thân phẫn nộ của Vajrasattva (Kim Cang Tát Đoả)

Có rất nhiều, rất nhiều đạo sư vĩ đại trong cả Ấn Độ và Tây Tạng, nhất là Tây Tạng thực tập về Vajrakilaya, đặc biệt là ở dòng truyền Nyingma (Cổ Mật), cũng có ở dòng truyền Kagyu và trong dòng truyền Sakya. Ở trong cả ba truyền thống Sakyapa, Tsharpa, Ngorpa. Hộ thần chính của dòng truyền Sakya ngoài Hevajra (Hỷ Kim Cang) là Vajrakilaya. Cho tới ngày nay, một trong những thực hành chính yếu của đức pháp vương Sakya Trizin cũng là Vajrakilaya.
Vajrakilaya không phải chỉ là một bổn tôn bình thường. Mà là tất cả, là một con đường hoàn thành từ ngondro (các pháp dự bị tu tập) cho tới thiền định phát triển và thiền định hoàn thiện. Pháp này có một con đường toàn vẹn riêng của mình. Có rất nhiều giáo pháp quý báu dựa trên nền tảng Vajrakilaya. Ví dụ như là những kho tàng giáo lý từ Jigme Lingpa, Ratna Lingpa và Nyang-rel Nyima Ozer. Không chỉ là những giáo lý ẩn tàng, mà trên thực tế vẫn có tại những dòng truyền ở Ấn Độ. Có Hevajra Tantra, cũng như có Vajrakilaya Tantra. Jamyang Khyentse Wangpo, H.H (Pháp Vương) Dilgo Khyentse Rinpoche, Dudjom Rinpoche, đều là những Lạt Ma vĩ đại. Trong truyền thống của Kaguy và Nyingma đều có những sadhana thực hành Vajrakilaya riêng của mình.
Khi nói về Vajrakilaya, chúng ta nói về bốn loại dao : dao Chất liệu , dao Bi mẫn , dao Bồ Đề Tâm, và dao Trí Tuệ.
Dao găm Chất liệu, thông thường được làm bằng những loại gỗ hoặc sắt, thép chất lượng, và đã được ban phước ở trong những buổi lễ ban phước, quán tưởng.Giữ nó bên mình và dùng nó chủ yếu để xuyên thủng mọi chướng ngại.
Dao găm Bi mẫn cơ bản là sự thực hành từ bi, và các đối tượng để dao găm đâm vào đó là chúng sanh. Bạn phải đặt nó lên chúng sanh.
• Và có thực hành Bồ Đề Tâm, dao găm Bồ Đề Tâm, đây là một dạng chính yếu khác của thực hành liên quan giữa Bồ Đề và vô thượng Bồ Đề lại với nhau. Ta dùng dao găm này đâm vào phương tiện.
• Trí tuệ và phương tiện, phương tiện chính là đối tượng. Đây là điều phức tạp nhất.Và cuối cùng, con dao quan trọng nhất là con dao của trí tuệ. Con dao này, trí tuệ, là toàn bộ giáo pháp Ati-yoga, như là giáo lý Dzogchen ( Đại Toàn Thiện), và con dao này được dùng để đâm vào sự vô minh.

Đạo sư vĩ đại Mipham Rinpoche [1846-1912] đã cô đọng lại ý nghĩa của Vajrakilaya như sau :
Như là trạng thái tự nhiên của mọi hiện tượng
Đây là sự tự do toàn thiện vĩ đại trước nhị biên.
Trạng thái tự nhiên đó được nhận biết thông qua sự tỉnh giác riêng lẻ.
Đó chính thực là Kila - trí tuệ của sự tỉnh giác.
Nó được gọi là Vajra - trí tuệ bất nhị - bất hoại,
Và được gọi là Kumara (Đồng Tử) vì trạng thái tự nhiên bất biến, và tự tại trước sự huỷ hoại.
Trạng thái Phật tánh nguyên thuỷ tràn ngập khắp,
Là nơi an trú cho tất cả chúng sinh.
Thông qua những giáo lý khẩu truyền thiện xảo được thượng sư chỉ bảo.
Và thông qua những yoga về việc nhận ra bản chất nền tảng của tâm.
Sự hiển thị của luân hồi và Niết Bàn đều nằm dưới sự kiểm soát,
Thông qua việc đâm thủng các hiện tượng với sự tỉnh giác của Kila.
Như vây, sự tin tưởng khôn ngoan này có thể phá huỷ những ảo tưởng về luân hồi và Niết Bàn.
Rút lấy sự sống của những thế lực của sự đảo điên mà khó có thể điều ngự.
Nó làm ngập tràn không gian hạnh phúc bởi Bồ Đề Tâm,
Và nó làm hoàn hảo sự xuất hiện và tồn tại các mandala của mạng lưới phép màu.
Ema! Tất cả những chúng sinh có thể thực hiện pháp yoga của Kila :
Hoạt thần tối cao của tất cả chư Phật,
Cùng với quyến thuộc là những trưởng tử tối thượng và các phẫn nộ tôn khác.
Đạt được sức mạnh thông qua sự trống rỗng của luân hồi và Niết Bàn
Và tất cả có thể đạt được tới đẳng cấp của đấng Đại Vinh Quang,
trong ngay chính cuộc sống này.

IV) Một số kết quả khi thực hành Vajrakilaya
- Khi xuất thần :
• Thăng hoa những cảm xúc, có thể đi kèm với nó là sự không thể kiềm chế được khóc hoặc cười lớn.
• Cảm giác bay bổng
• Có những kinh nghiệm xuất thần ( bên ngoài thân thể )
• Cảm thấy yên bình và tĩnh tại tột bậc
• Những cảm giác ngất ngây của thân thể
• Sự thấu hiểu tinh thần (nội tại) sâu sắc
• Cảm thấy trái tim rộng mở
• Cảm thấy lòng bi
- Thay đổi :
• Tăng trưởng sự tin tưởng
• Giảm được sự lo lắng
• Cảm xúc vững vàng hơn, kiên cố hơn
• Có những giấc mơ tiên tri, giải đoán
• Quan kiến rộng rãi hơn
• Ban phát năng lực khi tương tác với những người khác
• Có được sự thấu hiểu sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống

V) Về Puja của Vajrakilaya
Tất cả các trải nghiệm trong cuộc sống của chúng ta, dù là tốt hay xấu, đều không phải là tình cờ. Chúng xảy đến bởi vì những nhân và duyên. Trong Phật giáo, điều này được biết đến như là nghiệp hay là luật nhân quả. Những gì chúng ta trải qua ngay bây giờ hoặc là sẽ trải qua trong tương lai đều phụ thuộc vào những gì chúng ta làm trong quá khứ, trong cuộc đời này và ở những cuộc đời trước. Những nghiệp quả của chúng ta như là những suy nghĩ, lời nói, hành động, sẽ định hướng cho những gì trong hiện tại và tương lai mà ta sẽ gặp phải.
Như trong cuộc sống đời thường, ví như những công việc của bạn thành công hay không là phụ thuộc hoàn toàn vào nghiệp của riêng bạn và cộng nghiệp của những người xung quanh. Không hiểu điều này, chúng ta thường thì bối rối vì sao ta đã làm những điều đúng, nhưng những thứ đó vẫn trở nên rất sai. Cùng nguyên lý đó áp dụng cho cuộc sống gia đình và xã hội của chúng ta. Những chướng ngại trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong sự thực hành Pháp đều là sự chín mùi của nghiệp xấu hoặc là những tạo tác của thân khẩu ý ở vô lượng đời trước.
Nhằm tránh những nghiệp xấu và tạo nhiều nhân duyên thù thắng, thuận lợi, chúng ta cần gom góp phước báu.
Sự thực hành Vajrakilay là thuộc bộ Tối Thượng Du Già và có năng lực một cách đặc biệt đối với việc những dẹp chướng ngại. Dilgo Kyentse Rinpoche đã nói : "Mặc dù Đạo Sư Liên Hoa Sanh đã hoàn thành những Hộ Thần như Yangdak, Hayagriva (Mã Đầu Minh Vương) và Chemchok Heruka, nhưng khi có trở ngại và khó khăn, thì ngài luôn luôn trở lại dùngVajrakilaya". Thậm chí đức Đạt Lai Lạt ma cũng trân quý Vajrakilaya như Bổn Tôn Hộ Thần của ngài.

Chemchok Heruka

Trong các lễ Puja, chắc chắn đã bao gồm tất cả cố gắng của những người lập lễ, thông qua quán tưởng, thông qua thần chú và ấn khế.Không phải là một ai đó bình thường đã nói, mà chính Guru Rinpoche cũng đã tự nói rằng : Ở nơi nào có lễ ( Puja) Vajrakilaya được tổ chức, thì nơi chốn đó sẽ trở thành thịnh vượng, và được giải phóng khỏi tất cả những đau khổ cả bên ngoài lẫn bên trong, đặc biệt là những đau khổ, ràng buộc bên trong và những đau khổ nội tại bí mật.

Những ai có mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với Vajrakilaya hoặc có sự kết nối với Vajrakilaya thì sẽ dần dần hoặc ngay lập tức tiêu trừ các chướng ngại. Và kết quả cuối cùng, là sẽ sớm đạt được tới trạng thái của Vajrasattva một cách nhanh chóng

Mã Đầu Minh Vương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét